PNO - Tuổi thơ của tôi gắn liền với một món chè quen, dễ nấu và dễ ăn. Nhà có cái quán nhỏ bên đường, má tôi nấu thêm nồi chè đậu xanh để bán cho khách trong xóm.
Má nấu thử vài lần, rồi để tôi nấu. Nồi chè bán từ nửa buổi sáng, tới đầu giờ chiều đã hết, bữa nào chậm là tới xế chiều. Nhà tôi không có nhiều vốn để mua sỉ số đậu và đường chất sẵn, nên mỗi chiều, bán xong tôi đạp xe lên chợ mua bốn lạng đậu xanh hột và một ký đường tán, thêm ống vani để về nấu nồi chè cho buổi tiếp theo.
Bà Chín Đông thương tôi lắm, chiều nào bà cũng cân sẵn hàng cho tôi. Bà dặn: “Bữa nào không có tiền, con cứ lên lấy đường, đậu về nấu nghen”.
Thời đó, chợ cũng có bán thuốc muối (thuốc làm nhừ đậu - bicacbonat) và đường ngọt (đường hóa học), nhưng nhà tôi không khi nào dùng. Nghe nói chỉ cần cho một viên đường này là đủ ngọt, nhưng má tôi dặn, thà mình lấy công làm lời chớ đừng nấu kiểu đó khó ăn lắm.
Đậu đem về, tôi vo sạch, ngâm tới tối thì nấu cho vừa chín tới, nhắc nồi xuống, đậy vung. Sáng sớm mai, chỉ cần nấu sôi một dạo, chặt đường tán cho vô, để sôi liu riu vài dạo cho đường thấm, sau đó tắt bếp, thêm vani và dằn chút xíu xiu muối hầm để nồi chè đằm vị.
Rồi tôi bưng nồi ra quán, để nguội, khách thích ăn lạnh thì thêm đá. Bữa nào cũng có mấy cô chú anh chị của hãng xà bông kế nhà tôi ghé ăn giữa buổi, nên nồi chè đã có đủ lượng khách chính. Còn lại năm chị em tôi, bữa nào cũng được một ly, hôm bán ế, mỗi đứa ăn luôn hai ly coi như thiếu tiền mua đậu.
Hằng tuần, má con tôi chịu khó đổi món, làm thêm hột lựu, nạo dừa vắt nước cốt, hầm đậu trắng nấu món chè hột é nước dừa, chè đậu ván nước…
Bây giờ, lâu lâu nấu chè tôi lại gom hết nỗi nhớ những món chè được nếm, được ăn, mới thấy chè xứ mình như một nét văn hóa với hương vị và phong vị rất riêng.
Tôi nhớ dì ba Thường với món xôi chè (chè đường đậu đen, nếp, mè gừng) trong mỗi lần nhà ngoại có giỗ bà cố. Nhớ món chè thưng, chè ba màu mà thuở mười ba phụ cậu mợ Sáu bán chè mỗi tối và được trả công bằng một ly hay một chén chè. Nhớ món chè bột lọc bọc đậu phộng cùng các bạn thân nhồi bột, vo viên và nấu. Nhớ món chè khoai môn, chè chuối của cô Thà ở trong chợ, nhớ món chè của nhà cô Hạ trên phố…
Sau này có dịp đi đó đây, tôi lại được thưởng thức món chè hé ở Đà Lạt, chè bà ba bà tư, chè kê, chè hạt sen Huế của nghệ nhân ẩm thực Hồ Đắc Thiếu Anh, và được thử nhiều món chè khác nữa nhưng tôi vẫn nhớ nhất chè đậu xanh hột - món ngon bổ dưỡng ngày nào đã góp phần nuôi lớn chị em tôi.
Bây giờ, tôi thường nấu chè theo cách của mình để dâng lên ông bà “trước cúng, sau ăn”. Đó là món chè bắp, chè có chút đậu, thêm nha đam, nhúm hạt kê, khoai bí… có cả chút cơm dừa và đường thẻ, có khi thay bằng đường thốt nốt, đường phèn… Ngày nắng nóng, ăn chén chè ngọt vừa phải (bây giờ lượng đường tôi cho vào chỉ bằng 1/3 ngày trước), lại nhớ về tán đường mía ngọt lành chứa cả nỗi nhọc nhằn vì nắng hạn của người dân làm mía đường. https://www.phunuonline.com.vn/che-oi-a1444797.html
Nguyễn Thị Thanh Thúy #hoiquancacbame #choquegiuapho